Bóng đá nước Đức vào cuối thập kỷ 80, 90 đã được chứng kiến một ngôi sao tài năng trên hàng tiền vệ. Đó là Lothar Matthäus – người đóng góp một công lao to lớn vào chức vô địch của tuyển Đức tại World Cup 1990 được diễn ra ở Italia. Vậy Lothar Matthäus là ai? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về vị “tiểu hoàng đế” này ngay trong bài viết sau đây nhé!
Thông tin cá nhân của Lothar Matthäus

Thông tin cá nhân | |
Tên đầy đủ | Lothar Herbert Matthäus |
Ngày sinh | 21 tháng 3, 1961 (60 tuổi) |
Nơi sinh | Erlangen, Tây Đức |
Chiều cao | 1,74 m |
Vị trí | Tiền vệ, Hậu vệ quét |
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |
1971 – 1979 | FC Herzogenaurach |
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp | |
Năm | Đội |
1979 – 1984 | Borussia M’Gladbach |
1984 – 1988 | Bayern Munich |
1988 – 1992 | Internazionale |
1992 – 2000 | Bayern Munich |
2000 | MetroStars |
Đội tuyển quốc gia | |
1979 – 1983 | U-21 Tây Đức |
1979 – 1981 | Tây Đức B |
1980 – 2000 | Đức |
Các đội đã huấn luyện | |
2001 – 2002 | Rapid Wien |
2002 – 2003 | Partizan Belgrade |
2004 – 2006 | Hungary |
2006 | Atlético Paranaense |
2006 – 2007 | Red Bull Salzburg |
2008 – 2009 | Maccabi Netanya |
2010 – 2011 | Bulgaria |
Lothar Matthäus là ai?
Lothar Matthäus sinh ngày 21 tháng 3 năm 1961 tại Erlangen. Vùng đất này đã quá nổi tiếng về những công ty sản xuất các dụng cụ thể thao. Ngay cả người thân, họ hàng của ông cũng đều làm việc ở trong những nhà máy này.
Thế nhưng Lothar Matthäus lại lựa chọn một con đường khác. Ông có một niềm say mê đặc biệt với bóng đá trong khi đó bố mẹ của ông lại muốn con đi theo con đường học hành chính quy. Chính vì thế mà ông đã phải học chuyên ngành thiết kế nội thất theo mong muốn của bố mẹ.
Sự nghiệp câu lạc bộ của Lothar Matthäus
Sự nghiệp sân cỏ của Lothar Matthäus được bắt đầu tại một câu lạc bộ địa phương có tên là Herzogenaurach vào năm 10 tuổi. Sau thời gian 8 năm gắn bó và phát triển tại đây, vào năm 18 tuổi, ông đã ký kết một bản hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với một câu lạc bộ có tiếng tại Đức lúc bấy giờ là Borussia Monchengladbach.
Với tài năng thiên bẩm của mình, Lothar Matthäus đã nhanh chóng trở thành một nhân tố không thể thiếu trong đội hình của Monchengladbach. Ngay ở mùa giải đầu tiên tại đây, ông đã có tổng cộng 41 lần ra sân và thành công ghi được 6 bàn thắng. Trong những năm tiếp theo, Lothar Matthäus luôn được ra sân từ 38 trận trở lên. Sau 5 mùa giải gắn bó cùng Monchengladbach, ông ghi được tổng cọng 36 bàn thắng tạ Bundesliga và cũng từ đây, ông đã tạm biệt với đội bóng chuyên nghiệp đầu tiên của mình và đi tìm một nấc thang mới trong sự nghiệp.
Điểm dừng chân tiếp theo của Lothar Matthäus là câu lạc bộ mạnh nhất của Bundesliga ở thời điểm đó là Bayern Munich. Nếu như ví đội Monchengladbach là nơi chấp cánh cho sự nghiệp của Lothar Matthäus thì Bayern Munich được xem là đỉnh cao mà ông đã chạm đến trong sự nghiệp của mình.
Trong 4 mùa giải thi đấu trong màu áo của Hùm Xám, Lothar Matthäus đã cùng với các đồng đội của mình giành được 3 chức vô địch của Bundesliga vào các mùa giải 1984 – 1985, 1985 – 1986, 1986 – 1987. Trong các mùa giải này, Lothar Matthäus đã ghi được 57 bàn thắng với ít nhất là 10 bàn trong mỗi mùa.
Sau thất bại của Bayern Munich trong mùa giải 1987 – 1988, Lothar Matthäus đã quyết định 1 lần nữa bước ra khỏi nước Đức để tìm kiếm những trải nghiệm mới mẻ trong sự nghiệp cầu thủ của mình. Và điểm dừng chân tiếp theo mà Lothar Matthäus chọn là Inter Milan. Bằng tài năng và kỹ thuật của mình, một lần nữa Lothar Matthäus chạm đến thành công.
Ngay từ mùa giải đầu tiên trong màu áo của câu lạc bộ, “tiểu hoàng đế” đã giúp cho Inter Milan đạt được chức vô địch Serie A mà suốt 9 năm vừa qua họ không có được. Đến mùa giải 1990 – 1991, Lothar Matthäus đã cùng với đồng đội của mình giành được danh hiệu UEFA Cup. Đây cũng là danh hiệu châu Âu đầu tiên mà ông có được ở cấp câu lạc bộ.

Sau 4 năm cùng gắn bó với Inter Milan, ông đã quyết định quay trở về Đức để tìm kiến sự an yên trong những ngày tháng còn lại của sự nghiệp. Và một lần nữa, Hùm Xám xứ Bavaria là nơi dang tay chào đón Lothar Matthäus trở về.
Nhiệm kỳ thứ 2 của Lothar Matthäus tại Bayern Munich kéo dài 8 năm và đạt được nhiều thành công không kém cạnh so với nhiệm kỳ đầu tiên. Ông đã cùng với đội bóng của mình giành thêm 4 chức vô địch Bundesliga vào các mùa giải 1993 – 1994, mùa giải 1996 – 1997, mùa giải 1998 – 1999 và mùa giải 1999 – 2000 cùng vói 2 cúp quốc gia.
Không chỉ là một cỗ máy săn bàn mà Lothar Matthäus đã có một nhiệm kỳ thi đấu đầy bản lĩnh, một tinh thần thi đấu hết mực, một người đàn anh đầy mẫu mực ở trên sân cỏ của Olympiastation.
Sau khi tạm biệt Bayern Munich sau 8 năm gắn bó, ở tuổi 39 Lothar Matthäus đã có một khoảng thời gian gắn thi đấu cho câu lạc bộ MetroStars của Giải nhà Nghề Mỹ (MLS). Chưa đầy một năm tại đây, ông đã cùng với câu lạc bộ mang về danh hiệu MLS Eastern Division Champions – một kết thúc hoàn hảo trong sự nghiệp của “tiểu hoàng đế”.
Mặc dù đã có một sự nghiệp khá trọn vẹn trong sự nghiệp câu lạc bộ của mình nhưng vẫn chưa đạt đến độ hoàn hảo. Và mảnh ghép còn thiếu trong bộ sưu tập đồ sộ đó là chiếc cúp C1 châu Âu (European Cup / Champions League). Ông đã có 2 lần cùng với đội bóng của mình vào đến trận chung kết của European Cup mùa giải 1986 – 1987 và Champions League vào mùa giải 1998 – 1999. Thế nhưng lại nhận về thất bại đắng cay.
Bayern Munich đều dẫn trước ở cả 2 trận nhưng lại bị Porto (1986 – 1987) và Manchester United (1998 – 1999) lội ngược dòng. Trong đó phải kể đến trận chung kết của mùa giải 1998 – 1999 được diễn ra tại sân Camp Nou khi đi vào lịch sử bóng đá thế giới với 2 bàn thua đều được ghi ở phút bù giờ.
Sự nghiệp quốc tế của Lothar Matthäus
Sự nghiệp câu lạc bộ của Lothar Matthäus bắt đầu từ năm 18 tuổi. Sau đó 1 năm thì ông được gọi lên đội tuyển quốc gia Đức. Ngay từ khi được gọi lên tuyển thì Lothar Matthäus đã có cơ hội được tham gia Euro 1980. Ông có trận ra mắt ở phút 73 trong trận đấu vòng bảng gặp đội tuyển Hà Lan. Trong mùa giải năm đó, Đức giành chiến thắng 2 – 1 trong trận chung kết trước đội tuyển Bỉ và đăng quang chức vô địch Euro 1980. Đây cũng là một sự khởi đầu suôn sẻ của Lothar Matthäus tại đội tuyển quốc gia.
2 năm sau đó, Lothar Matthäus tiếp tục được tham gia World Cup 1982. Đây cũng là lần đầu tiên mà Lothar Matthäus tham gia vào giải đấu bóng đá lớn nhất thế giới. Ông đã cùng với đồng đội của mình bước vào trận chung kết. Thế nhưng, tuyển Đức đã thất bại trước Itali với tỉ số 1 – 3.
Sau đắng cay bị loại ngay ở vòng bảng Euro 1984, một lần nữa đội tuyển Đức quyết tâm quay trở lại World Cup 1985. Cũng tại mùa giải này, Lothar Matthäus trở thành một nhân tố không thể thiếu của “Cỗ xe tăng”. Ông ra sân thi đấu trọn vẹn số phút của đội tuyển Đức ở Mexico. Mặc dù có khởi đầu khá chật vật ở vòng bảng khi đức nhì, thế nhưng Lothar Matthäus đã cùng với đội tuyển Đức chứng minh được phong độ của mình ở vòng knock – out.
Khi lần lượt vượt qua Morocco, Mexico và Pháp, Lothar Matthäus đã có 2 lần thứ 2 liên tiếp tham gia trận chung kết World Cup. Mặc dù đã nỗ lực hết sức mình và gỡ hòa 2 – 2 sau khi bị dẫn trước 2 bàn, đội tuyển Đức vẫn phải nhận thất bại trước Argentina và tiếp tục về nhì.
Chẳng có điều gì là về nhì mãi mãi. Sau 2 lần thất bại ở chung cuộc thì tuyển Đức cũng đã có thể chạm tay đến danh hiệu danh giá nhất tại World Cup 1990 ở Ý. Ở độ tuổi 29, ông được trao trọng trách đeo băng đội trưởng và cùng với đồng đội của mình trở thành một trong số ít đội bóng theo đuổi lối đá tấn công ở trên đất Ý.
Đứng đầu tại vòng bảng, Đức tiếp tục vượt qua cộng hòa Séc, Hà Lan và Anh tại vòng knock out để tiến thẳng vào vòng chung kết. Đối thủ của họ vẫn là Argentina thế nhưng kết quả lần này đã khác với 4 năm trước. Bàn thắng duy nhất của Andreas Brehme trên chấm penalty đã giúp cho đội tuyển Đức giành ngôi vô địch. Đây là chiếc cúp thứ 3 mà Đức nhận được và là lần đầu tiên của Lothar Matthäus.
Sau khi giành ngôi vô địch World Cup 1990, Lothar Matthäus lại tiếp tục ghi tên mình trong danh sách của đội tuyển Đức tham gia World Cup năm 1994 và năm 1998. Mặc dù không cùng tuyển Đức đăng quang thêm một lần nào nữa, nhưng cũng đủ để ghi tên Lothar Matthäus vào lịch sử giải đấu khi nắm giữ được 2 kỷ lục quan trọng.
Lothar Matthäus là cầu thủ ra sân nhiều nhất ở World Cup với tổng cộng 25 lần. Hiện tại kỳ lục của ông vẫn chưa được phá dù đã hơn 20 năm trôi qua. Bên cạnh đó, Lothar Matthäus cùng với Rafael Marquez, Antonio Carbajal là 3 cái tên từng ra sân ở 5 kỳ World Cup.
Lothar Matthäus – một huyền thoại bất tử trong lòng người hâm mộ
Sau khi chính thức tạm biệt sự nghiệp sân cỏ của mình, Lothar Matthäus ngay sau đó bước chân vào sự nghiệp làm huấn luyện viên. Mặc dù dưới cương vị của một nhà cầm quân nhưng ông lại liên tục gặp phải thất bại. Không chỉ thế, ông cũng có nhưng phát biểu gay gắt nhắm vào các cầu thủ và cả “hoàng đế” Franz Beckenbauer đã khiến cho cái tên Lothar Matthäus trở thành cái tên bị ghét nhất nước Đức ở thời điểm đó.

Trong một cuộc phỏng vấn của Diego Maradona đã chia sẻ về Lothar Matthäus rằng: “Lothar? Anh ấy là đối thủ lớn nhất mà tôi từng gặp. Tôi nghĩ như vậy là quá đủ để miêu tả về con người của anh ấy.”
Mặc dù chỉ có chiều cao 1m74, thế nhưng Lothar Matthäus đã trở thành một trong những mẫu tiền vệ “box to box” hàng đầu lịch sử bóng đá thế giới. Lothar Matthäus thực sự là một mẫu cầu thủ toàn diện. Ông sở hữu một khả năng đi bóng, sút xa và sút phạt cực kỳ tốt. Trong suốt sự nghiệp của mình, Lothar Matthäus đã ghi đươc 204 bàn thắng – một con số không hề nhỏ đối với một cầu thủ tiền vệ trung tâm.
Ở trên hàng phòng ngự, Lothar Matthäus trở thành một cơn ác mộng dành cho những ai bị ông kèm cặp, kể cả huyền thoại Maradona bởi ông có một khả năng đọc tình huống và tắc bóng cực kỳ tốt. Ở trong 2 trận chung kết của World Cup mùa 1986 và 1990, Lothar Matthäus được giao nhiệm vụ theo sát Maradona trong trận Đức đối đầu với Argentina.
Sau khi giành được ngôi vô địch World Cup năm 1990, việc gặp phải những chấn thương cùng với “tuổi băm” đã khiến cho Lothar Matthäus không thể có được thể lực để đảm nhận vị trí tiền vệ trung tâm của tuyển Đức được nữa. Mặc dù thế, ông cũng không hề bỏ cuộc mà chơi tại vị trí libero theo gợi ý của “hoàng đế” Beckenbauer. Cũng kể từ đó mà Lothar Matthäus trở thành một cột mốc bất tử tại World Cup 1994.
Trong trận đấu vòng bảng với Hàn Quốc, Lothar Matthäus bị dính một vết cắt sâu ở chân phải và ông phải rời sân trong tình trạng chảy rất nhiều máu. Đến với trận đấu gặp Bỉ tại vòng 1/16, do ảnh hưởng của chấn thương đó nên ông cũng chỉ chơi được trong 1 hiệp. Ở thời điểm đó, toàn bộ bác sĩ đều lắc đầu và đều cho rằng chấn thương mà Lothar Matthäus mắc phải là rất nghiêm trọng mà không thể tiếp tục thi đấu ở trên đất Mĩ được nữa.
Thế nhưng, trong tình trạng tuyển Đức thiếu hụt cầu thủ trầm trọng tại vòng tứ kết thì Lothar Matthäus đã buộc phải tiêm một mũi giảm đau liều cao và ra sân. Trong trận đấu đối đầu với Bulgaria, ông đã cùng với đồng đội của mình bước ra sân trong một tư thế hiên ngang và ghi bàn thắng mở tỉ số ngay trên chấm 11 mét.
Thế nhưng, 2 bàn thắng của Letchkov và Stoichkov của Bulgaria đã buộc tuyển Đức phải dừng mùa giải của mình. Thế nhưng hình ảnh Lothar Matthäus đứng thờ thẫn tại East Rutherford với chân phải đầy máu thì vẫn luôn là biểu tượng cho tinh thần chiến đấu bất diệt của người Đức.
Thống kê sự nghiệp của Lothar Matthäus
Sự nghiệp câu lạc bộ
Vô địch quốc gia | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Cúp châu lục | Tổng cộng | ||||||||
Mùa giải | Câu lạc bộ | Giải đấu | Số trận | Số bàn | Số trận | Số bàn | Số trận | Số bàn | Số trận | Số bàn | Số trận | Số bàn |
Đức | VĐQG | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Cúp châu Âu | Tổng cộng | |||||||
1979–80 | Borussia Mönchengladbach | Bundesliga | 28 | 4 | 2 | 0 | — | — | 11 | 2 | 41 | 6 |
1980–81 | 33 | 10 | 5 | 2 | — | — | — | — | 38 | 12 | ||
1981–82 | 33 | 3 | 5 | 4 | — | — | 4 | 1 | 42 | 8 | ||
1982–83 | 34 | 8 | 5 | 2 | — | — | — | — | 39 | 10 | ||
1983–84 | 34 | 11 | 6 | 4 | — | — | — | — | 40 | 15 | ||
1984–85 | Bayern Munich | 33 | 16 | 6 | 0 | — | — | 5 | 1 | 44 | 17 | |
1985–86 | 23 | 10 | 5 | 2 | — | — | 3 | 0 | 31 | 12 | ||
1986–87 | 31 | 14 | 3 | 1 | — | — | 7 | 4 | 41 | 19 | ||
1987–88 | 26 | 17 | 4 | 3 | — | — | 4 | 1 | 34 | 21 | ||
Ý | VĐQG | Cúp QG | Cúp liên đoàn | Cúp châu Âu | Tổng cộng | |||||||
1988–89 | Internazionale | Serie A | 32 | 9 | 7 | 3 | — | — | 5 | 0 | 44 | 12 |
1989–90 | 25 | 11 | 2 | 2 | 2 | 0 | 29 | 13 | ||||
1990–91 | 31 | 16 | 3 | 1 | 12 | 6 | 46 | 23 | ||||
1991–92 | 27 | 4 | 5 | 1 | 2 | 0 | 34 | 5 | ||||
Đức | VĐQG | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Cúp châu Âu | Tổng cộng | |||||||
1992–93 | Bayern Munich | Bundesliga | 28 | 8 | 0 | 0 | — | — | — | — | 28 | 8 |
1993–94 | 33 | 8 | 3 | 1 | — | — | 4 | 1 | 40 | 10 | ||
1994–95 | 16 | 5 | 2 | 0 | — | — | 6 | 0 | 24 | 5 | ||
1995–96 | 19 | 1 | 0 | 0 | — | — | 7 | 0 | 26 | 1 | ||
1996–97 | 28 | 1 | 3 | 0 | — | — | 2 | 0 | 33 | 1 | ||
1997–98 | 25 | 3 | 3 | 0 | 2 | 0 | 5 | 0 | 35 | 3 | ||
1998–99 | 25 | 1 | 5 | 0 | 2 | 0 | 12 | 1 | 44 | 2 | ||
1999–2000 | 15 | 1 | 2 | 0 | 0 | 0 | 9 | 0 | 26 | 1 | ||
Hoa Kỳ | VĐQG | Open Cup | MLS Cup | Bắc Mỹ | Tổng cộng | |||||||
2000 | MetroStars | Major League Soccer | 16 | 0 | 2 | 0 | 5 | 0 | — | — | 23 | 0 |
Quốc gia | Đức | 464 | 121 | 59 | 19 | 4 | 0 | 79 | 11 | 606 | 151 | |
Ý | 115 | 40 | 17 | 7 | — | — | 21 | 6 | 153 | 53 | ||
Hoa Kỳ | 16 | 0 | 2 | 0 | 5 | 0 | — | — | 23 | 0 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 595 | 161 | 78 | 26 | 9 | 0 | 100 | 17 | 782 | 204 |
Sự nghiệp quốc tế của Lothar Matthäus
Đức | ||
Năm | Số trận | Số bàn |
1980 | 1 | 0 |
1981 | 1 | 0 |
1982 | 10 | 0 |
1983 | 7 | 0 |
1984 | 10 | 0 |
1985 | 7 | 1 |
1986 | 15 | 2 |
1987 | 6 | 1 |
1988 | 10 | 4 |
1989 | 3 | 1 |
1990 | 15 | 7 |
1991 | 7 | 3 |
1992 | 4 | 0 |
1993 | 11 | 0 |
1994 | 15 | 3 |
1995 | 0 | 0 |
1996 | 0 | 0 |
1997 | 0 | 0 |
1998 | 8 | 0 |
1999 | 13 | 1 |
2000 | 7 | 0 |
Tổng cộng | 150 | 23 |
Các danh hiệu đã đạt được trong sự nghiệp của Lothar Matthäus
Danh hiệu câu lạc bộ
Câu lạc bộ Bayern Munich
- Bundesliga: Mùa giải 1984 – 1985, mùa giải 1985 – 1986, mùa giải 1986 – 1987, mùa giải 1993 – 1994, mùa giải 1996 – 1997, mùa giải 1998 – 1999, mùa giải 1999 – 2000
- DFB – Pokal: Mùa giải 1985 – 1986, Mùa giải 1997 – 1998, Mùa giải 1999 – 2000
- UEFA Cup: Mùa giải 1995 – 1996
Câu lạc bộ Inter Milan
- Vô địch Serie A: Mùa giải 1988 – 1989
- SuperCoppa Italiana: Năm 1991
- UEFA Cup: Mùa giải 1990 – 1991

Danh hiệu quốc tế
- UEFA Euro: Năm 1980
- FIFA World Cup: Năm 1990
- Vô địch giải ở Serbia and Montenegro: 2003 (trong vai trò là huấn luyện viên)
Danh hiệu cá nhân
- Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA: Năm 1991
- Ballon d’Or: Năm 1990
- World Soccer: Năm 1990
- Cầu thủ Đức hay nhất năm: Năm 1990, năm 1991
Trên đây là toàn bộ thông tin về Lothar Matthäus là ai. Hy vọng rằng những thông tin trên đây đã giúp cho các bạn hiểu rõ hơn về cầu thủ tài năng này. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết tiếp theo của chúng tôi!